bệnh tinh hồng nhiệt

Bệnh ban đỏ, hay còn gọi là sốt Scarlet hoặc sốt tinh hồng nhiệt, là một bệnh do vi khuẩn phát triển trong một số người bị viêm họng, Bài Viết: Scarlet fever là gìSốt scarlet là một bệnh nhiễm trùng truyền nhiễm chủ yếu liên quan đến trẻ nhỏ dại and dễ dàng đc điều trị bằng kháng sinh Tinh hồng nhiệt (Scarlet Fever, Scarlatina) là bệnh nhiễm trùng cấp ở amygdales, da và các vị trí khác của cơ thể do một chủng streptococcus nhóm A beta-tan máu (GABHS) sản xuất ngoại độc tố gây ra. – Bệnh thường đi kèm với phát ban đỏ do nhiễm độc nổi bật . – Sự sản Tinh hồng nhiệt là nhiễm trùng cấp ở amygdales, da và các vị trí khác của cơ thể do một chủng streptococcus nhóm A beta-tan máu (GABHS) sản xuất ngoại độc tố gây ra. - Bệnh thường đi kèm với phát ban đỏ do nhiễm độc điển hình. - Sự sản xuất độc tố tùy thuộc vào khả Tổng hợp 10+ bệnh tinh hồng nhiệt hay dùng nhất Posted on 2 Tháng Tám, 2022 https://globalizethis.org tổng hợp và liệt ra những bệnh tinh hồng nhiệt dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ ích nhất Sốt tinh hồng nhiệt là loại bệnh gây ra bởi sự phóng thích các ngoại độc tố của nhóm liên cầu khuẩn Streptococcus A, bệnh thường đi đôi với chứng viêm họng. Khoảng 10% trường hợp viêm họng liên cầu khuẩn phát triển thành loại sốt này. Bệnh hồng cầu hình liềm, hay bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm thường được gọi tắt là bệnh hồng cầu liềm.Đây là là bệnh do một rối loạn di truyền gây ra, do một đột biến gen gây ra bất thường cho phân tử hemoglobin vận chuyển ôxi trong các tế bào hồng cầu khiến cho axit glutamic ở vị trí thứ 6 trong runconsrebur1978. Hỏi Sau một đợt viêm họng, cháu tôi bị nổi ban đỏ khắp người. Đi khám, bác sĩ chẩn đoán cháu bị bệnh tinh hồng nhiệt. Xin giải thích rõ hơn về bệnh này, bệnh có để lại di chứng gì không? Trả lời Bệnh tinh hồng nhiệt là một bệnh nhiễm trùng cấp tính của amiđan hay nhiễm trùng da, thường gặp ở trẻ em, do liên cầu tan huyết nhóm A đôi khi do tụ cầu vàng gây ra. Thường sau 2-3 ngày bị bệnh nhiễm trùng ở họng hay ở trên da thì bệnh nhân có biểu hiện phát ban. Các ban đỏ nhạt hoặc đỏ tươi xuất hiện ở phía trên thân thể trước, sau đó lan ra tay, chân. Ban đỏ có ở cả trên mặt, nhưng xung quanh miệng thì có quầng trắng. Lúc đầu các ban nhỏ lấm tấm trên một số mảng lớn, một số trường hợp lan khắp toàn thân. Bệnh nhân thường bị ngứa. Các ban nhạt dần sau 4-5 ngày và có thể bong vảy nhỏ như bụi phấn, bụi cám ở thân mình, bong vảy lớn thành lá ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Một số bệnh nhân có tổn thương nhẹ, thoáng qua, nên bệnh nhân không để ý, chỉ khi có biểu hiện bong vảy thì bệnh nhân mới lưu tâm đi thương còn có ở cả niêm mạc. Thanh quản đỏ. Lưỡi lúc đầu trắng với các gai lưỡi sưng phù và đỏ, sau đó lưỡi cũng bị đỏ. Ngày thứ 4-5 thì lưỡi có thể xuất hiện các mảng dày sừng và đỏ. Vòm miệng có thể có ban đỏ và các chấm xuất huyết. Khám thì có biểu hiện của viêm amiđan cấp. Hạch trước cổ có thể sưng to. Thực chất của bệnh là do nhiễm trùng họng ở đa số các trường hợp và vi khuẩn tiết ra ngoại độc tố gây đỏ da. Nếu ngoại độc tố được tiết ra nhiều mà không điều trị kịp thời thì có thể gây viêm khớp cấp, viêm cầu thận cấp... Về điều trị, bệnh nhân nên được nghỉ ngơi, dùng một đợt kháng sinh đủ liều, đủ thời gian thì kết quả sẽ rất tốt. Bệnh khỏi ở hấu hết các trường hợp và không để lại biến chứng. TS. Nguyễn Thị Lai - Khoa học & Đời sống Mục lục Sốt tinh hồng nhiệt là bệnh gì? Nguyên nhân và con đường lây truyền sốt tinh hồng nhiệt Các yếu tố nguy cơ Dấu hiệu và triệu chứng sốt tinh hồng nhiệt Chẩn đoán và điều trị sốt tinh hồng nhiệt Sốt tinh hồng nhiệt có thể dẫn đến biến chứng nào? Cách chăm sóc và phòng ngừa bệnh sốt tinh hồng nhiệt Biện pháp phòng ngừa 1. Sốt tinh hồng nhiệt là bệnh gì? Sốt tinh hồng nhiệt là một bệnh nhiễm trùng cấp tính của amidan hay nhiễm trùng da, thường gặp ở những người trước đó có viêm họng hoặc bị chốc. Bệnh do vi khuẩn thuộc chủng liên cầu tan huyết nhóm A, đôi khi là do tụ cầu vàng gây ra. Bệnh đặc trưng bởi các chấm màu đỏ - hồng, bóng, bao phủ toàn bộ cơ thể. Độc tố của vi khuẩn liên cầu nhóm A gây ra ban trong sốt tinh hồng nhiệt. Bệnh sốt tinh hồng nhiệt thường xảy ra ở trẻ em từ 2 – 10 tuổi. Khoảng 80% trẻ trên 10 tuổi có kháng thể kháng độc tố liên cầu suốt đời, trẻ dưới 2 tuổi vẫn còn kháng thể kháng ngoại độc tố có được từ mẹ. Tỷ lệ giữa nam và nữ bị sốt tinh hồng nhiệt là như nhau. 2. Nguyên nhân và con đường lây truyền sốt tinh hồng nhiệt Nhiễm khuẩn liên cầu nhóm A chính là nguyên nhân gây ra sốt tinh hồng nhiệt. Loại vi khuẩn này tiết ra một chất độc và tạo ra những phản ứng trong cơ thể gây ban đỏ. Đôi khi những bệnh liên quan đến da như bệnh chốc cũng có thể dẫn đến sốt tinh hồng nhiệt. Sốt tinh hồng nhiệt là một bệnh truyền nhiễm. Liên cầu khuẩn nhóm A lây từ người này sang người khác qua các giọt nước bọt bắn ra từ đường hô hấp do ho, hắt hơi,... Nguồn bệnh cũng có thể có ở người mang vi khuẩn nhưng không biểu hiện triệu chứng bệnh. Theo thống kê, khoảng 15 – 20% trẻ em trong lứa tuổi đi học thuộc nhóm người lành mang vi khuẩn. Người mang vi khuẩn phải có cơ địa nhạy cảm với độc tố liên cầu khuẩn mới phát bệnh. Vì vậy, trong gia đình có 2 trẻ cùng mang vi khuẩn nhưng chỉ có 1 trẻ tiến triển thành số tinh hồng nhiệt. Sốt tinh hồng nhiệt có thể lây qua những tổn thương ở da Nguồn Internet Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây do có những tiếp xúc trực tiếp với những thương tổn ở da, dùng chung quần áo, vật dụng nhiễm khuẩn... Các yếu tố nguy cơ Trẻ đang sống trong các khu tập thể đông đúc như trường học, nhà trẻ... Trẻ trên 2 tuổi. Trẻ có tiếp xúc với người bị viêm họng hoặc nhiễm khuẩn da. 3. Dấu hiệu và triệu chứng sốt tinh hồng nhiệt Sốt tinh hồng nhiệt thường có thời gian ủ bệnh từ khoảng 1 – 4 ngày. Các triệu chứng thường là Bắt đầu với dấu hiệu sốt cao đột ngột kèm theo đau bụng, nổi hạch vùng cổ sưng to, đau đầu, buồn nôn, ăn không ngon miệng, lưỡi sưng đỏ, mệt mỏi. Ban tinh hồng nhiệt sẽ xuất hiện sau khi có dấu hiệu sốt từ 12 – 48 giờ. Vị trí xuất hiện đầu tiên sẽ là vùng dưới tai, cổ, ngực, nách, háng. Sau đó sẽ lan ra các vùng khác của cơ thể sau 24 giờ tiếp theo. Ban dạng thô, nhỏ, bóng, đồng đều, có nơi tập trung thành mảng. Khi thưởng tổn da lan rộng, sờ vào da có cảm giác như sờ vào giấy nhám. Các nếp gấp của cơ thể, đặc biệt là ở vùng nách và khủy, các mạch máu mỏng manh có thể vỡ, tạo thành các đường đỏ gọi là đường pastia, tồn tại 1 – 2 ngày sau khi ban đỏ đã biến mất. Gây ngứa ngáy. Nếu không được điều trị, tình trạng sốt và ban đỏ sẽ tiến triển nghiêm trọng vào ngày thứ 2 và từ từ về bình thường trong 5 – 7 ngày tiếp theo. Sau đó, các ban đỏ bắt đầu mờ, bong da, giống như diễn biến của bỏng nắng. Ở các vùng như nách, háng, đầu ngón tay, chân, da sẽ bong lâu hơn, thậm chí kéo dài đến 6 tuần. 4. Chẩn đoán và điều trị sốt tinh hồng nhiệt Thông thường việc chẩn đoán trẻ bị sốt tinh hồng nhiệt thường dựa vào diễn biến của bệnh và các dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng. Ngoài ra, có thể dựa vào các xét nghiệm như Nuôi cấy vi khuẩn hoặc xét nghiệm nhanh liên cầu từ bệnh phẩm vùng hầu hoặc từ hạch amidan. Định lượng kháng thể kháng deoxyribonuclease và kháng thể kháng streptolysin O ASLO. Sốt tinh hồng nhiệt có thể được chẩn đoán qua các triệu chứng lâm sàng Nguồn Internet Sau khi chẩn đoán, nếu xác định nguyên nhân là do nhiễm khuẩn liên cầu nhóm A, bác sĩ sẽ chỉ định dùng kháng sinh cho trẻ đủ liều và đủ thời gian. Thời gian điều trị khoảng 10 ngày. Thông thường, tình trạng sốt sẽ cải thiện sau 12 – 24 giờ sau khi bắt đầu dùng kháng sinh. Tuy nhiên, các biểu hiện da có thể kéo dài trong vài tuần. Lưu ý Các triệu chứng có thể sẽ thuyên giảm rất nhanh sau khi dùng thuốc. Song, không vì thế mà cha mẹ ngừng thuốc ở trẻ, vì thuốc cần phải uống đủ liều lượng để tránh các biến chứng. 5. Sốt tinh hồng nhiệt có thể dẫn đến biến chứng nào? Mặc dù hiện nay, sốt tinh hồng nhiệt đã có thể điều trị bằng thuốc kháng sinh và hầu như đã được loại bỏ ở những nước phát triển. Tuy nhiên, trong một số ít trường hợp trẻ bị sốt tinh hồng nhiệt có thể dẫn đến các biến chứng như Viêm xoang, viêm tai, viêm phổi, viêm não... Ngoài ra, bé cũng có thể gặp một số biến chứng nghiêm trọng hơn sau vài tuần như viêm cầu thận, viêm tủy xương... 6. Cách chăm sóc và phòng ngừa bệnh sốt tinh hồng nhiệt Trẻ bị sốt tinh hồng nhiệt cần có một chế độ chăm sóc tốt, vì thế cha mẹ cần Điều chỉnh nhiệt độ phòng bé phù hợp. Đừng cho bé mặc quá nhiều quần áo khi bé đang bị sốt. Duy trì độ ẩm của cơ thể trẻ bằng cách cho bé uống nhiều nước. Cho bé ăn những món ăn mềm và lỏng như cháo thịt bằm với hành, súp... Biện pháp phòng ngừa Sốt tinh hồng nhiệt là bệnh dễ lây nhiễm. Do đó, cha mẹ nên chú ý những điều sau để tránh lây lan cho các thành viên khác trong gia đình Dùng ly, tách và đồ dùng ăn uống riêng, phải rửa với nước nóng và xà phòng trước và sau khi sử dụng. Tạm thời cho bé nghỉ học. Dạy bé cách sử dụng khăn giấy che mũi và miệng khi hắt hơi hoặc ho để tránh sự lây lan. Rửa tay bằng xà phòng thường xuyên. Cắt móng tay cho bé để ngăn việc bé gãy khi vết ban gây ngứa. Bệnh tinh hồng nhiệt là bệnh truyền nhiễm thường gặp ở trẻ em, còn được gọi là bệnh ban đỏ. Bệnh thường gặp nhất ở độ tuổi từ 2 – 10 tuổi. Đặc trưng của bệnh là những vùng đỏ trên da. Biên tập viên Trần Tiến Phong Đánh giá Trần Trà My, Trần Phương Phương Bệnh tinh hồng nhiệt là bệnh truyền nhiễm thường gặp ở trẻ em, còn được gọi là bệnh ban đỏ. Bệnh thường gặp nhất ở độ tuổi từ 2 – 10 tuổi. Đặc trưng của bệnh là những vùng đỏ trên da, làm cho toàn thân của trẻ có màu đỏ tươi. Nhờ có thuốc kháng sinh, bệnh này hầu như đã được loại bỏ ở những nước phát triển. Nguyên nhân Bệnh gây ra do liên cầu khuẩn Streptococcus nhóm A, cũng là loại liên cầu khuẩn gây viêm họng. Người mang vi khuẩn có thể lây bệnh cho người khác qua tiếp xúc trực tiếp, qua môi trường không khí, hoặc qua sử dụng chung một số đồ dùng. Chẩn đoán Thời gian ủ bệnh thường là khoảng từ 2 đến 4 ngày, đôi khi cũng kéo dài đến 7 ngày. Việc chẩn đoán dựa vào các triệu chứng khi phát bệnh như Nôn mửa. Sốt cao. Đau họng. Đau đầu. Sau khoảng 12 giờ thì các vùng đỏ trên da nổi lên, gồm rất nhiều các đốm nhỏ li ti màu đỏ, thường xuất hiện trước hết ở cổ và ngực, sau đó lan ra rất nhanh nhưng không xuất hiện trên mặt. Vùng xuất hiện dày đặc nhất thường là cổ, nách và dưới háng. Sốt có thể lên cao đến trên 400C. Ban đỏ kéo dài khoảng 6 ngày và sau đó da bị bong ra. Hai má ửng đỏ và quanh miệng xuất hiện một vùng tái nhợt thấy rất rõ. Trong vài ngày đầu, lưỡi có một lớp bợn trắng dày bao phủ, rồi xuyên qua đó tiếp tục mọc lên những đốm đỏ. Lớp bợn bao phủ này bong ra vào ngày thứ ba hoặc thứ tư, để lộ ra mặt lưỡi màu đỏ tươi với các đốm đỏ vẫn còn mọc lên. Chẩn đoán xác định có thể cần cấy vi khuẩn sau khi lấy bệnh phẩm ở họng. Điều trị Điều trị chủ yếu bằng kháng sinh. Có thể chỉ định penicillin V 250mg dạng viên uống, mỗi ngày 4 lần. Nếu dị ứng với penicillin, có thể đổi sang dùng erythromycin. Liệu trình điều trị có thể kéo dài đến 10 ngày. Có thể dùng paracetamol với liều thích hợp để giảm nhẹ các triệu chứng. Biến chứng của bệnh nếu không được điều trị có thể là bệnh thấp khớp cấp tính, viêm thận - tiểu cầu thận. Đôi khi có thể có viêm thận, viêm phổi... Tuy nhiên, việc điều trị bằng kháng sinh đã giúp loại trừ hẳn các nguy cơ này. Tinh hồng nhiệt là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp. Vụ dịch tinh hồng nhiệt sớm nhất là ở Sicile ý năm 1543. Khoảng thế kỷ XVII, người ta đã phân biệt tinh hồng nhiệt với bệnh sởi và gọi là scarlatine tinh hồng nhiệt TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN BẰNG XÉT NGHIỆM Tác nhân gây bệnh Tác nhân gây bệnh đến nay vẫn chưa được xác định. Trong những năm 1884- 1885, người ta đã chú ý đến những liên cầu khuẩn làm tan máu tìm thấy ở họng những người bị bệnh tinh hồng nhiệt. Những mãi đến năm 1923-1925. Dick mới chứng minh được vai trò bệnh căn của vi khuẩn này trong bệnh tinh hồng nhiệt. Nhà bác học này đã gây ra bệnh thực nghiệm cho người bằng liên cầu khuẩn dung huyết phân lập từ họng người bệnh, và đã tạo được miễn dịch cho người bằng những chế phẩm liên cầu khuẩn nuôi cấy. Sau này lại thấy phản ứng Dick với độc tố liên cầu khuẩn tiêm trong da dương tính ở những người tiếp thu bệnh tinh hồng nhiệt. Những người phản đối thuyết này đã đưa ra nhiều luận cứ quan trọng Liên cầu khuẩn dung huyết thường thấy ở họng 50-70% những người lành mạnh và ở những người mắc bệnh khác thí dụ bệnh bạch hầu. Không có một tiêu chuẩn nào để phân biệt liên cầu khuẩn dung huyết tinh hồng nhiệt với các liên cầu khuẩn dung huyết khác. Miễn dịch tạo ra ở người bằng các chế phẩm từ liên cầu khuẩn dung huyết còn đang nghi ngờ. Bệnh tinh hồng nhiệt gây miễn dịch lâu dài, trong khi đó, những bệnh khác rõ ràng là do liên cầu khuẩn dung huyết gây ra như quá trình mưng mủ, viêm quầng không có miễn dịch bền vững, mà còn có khi tạo ra nhạy cảm đối với sự nhiễm lại thí dụ ở bệnh viêm quầng. Người ta cũng đã tách được từ họng người bị bệnh tinh hồng nhiệt những virut có thể là tác nhân gây bệnh. Nói đúng hơn, tác nhân gây bệnh tinh hồng nhiệt là một liên hợp virut đặc hiệu và liên cầu làm tan huyết. Đó là kết luận của hội nghị quốc tế ở ý năm 1956 dành để thảo luận đặc biệt về vấn đề này. Giải quyết dứt khoát vấn đề bệnh căn của tinh hồng nhiệt là rất khó, bởi vì không có động vật thí nghiệm thích hợp để gây bệnh thực nghiệm. Chỉ có một vài loại khi giống như người là tiếp thu bệnh này ở mức độ thấp. Liên cầu khuẩn có cấu trúc kháng nguyên khác nhau gây ra vài chục typ huyết thanh. Nhưng tất cả các liên cầu khuẩn đó đều sinh ngoại độc tố giống nhau. Sức chịu đựng của liên cầu khuẩn ở ngoài cơ thể giống vi khuẩn bạch hầu, nhưng liên cầu khuẩn chết nhanh chóng hơn ở khô hanh, cho nên cơ chế truyền bệnh bằng bụi không thể thực hiện được như trong bệnh bạch hầu. Trong khi đó, liên cầu có thể sông lâu trong thức ăn, đặc biệt là trong sữa và những thức ăn có đường, cho nên ngoài bệnh tinh hồng nhiệt, chúng có thể gây những đợt bột phát ngộ độc thức ăn. Bệnh sinh và biểu hiện lâm sàng. Tác nhân gây bệnh vào cơ thể ở niêm mạc đường hô hấp trên mũi, họng, amidan, đôi khi qua da, sinh sản ở đó; sau đó ngoại dộc tố xâm nhập vào cơ thể. Thời kỳ ủ bệnh là từ 3-5 ngày, tôi da là 12 ngày. Biểu hiện lâm sàng là sốt, viêm mũi họng và thanh quản, hiện tượng nhiễm độc và hồng ban. Liên cầu khuẩn có thể vào dòng máu để đến sinh sản ở các nội tạng và gây những biến chứng viêm tai có mủ, tổn thương ở tim, viêm thận, nhất là khi bị tái nhiễm hoặc bội nhiễm. Từ lâu người ta đã thấy rằng dịch tinh hồng nhiệt thường kèm theo dịch viêm amidan. Tác nhân gây bệnh được giải phóng dần dần cùng với các mô niêm mạc, da bị rụng ra khỏi cơ thể và quá trình này thường kết thúc khi hết triệu chứng lâm sàng. Tuy nhiên một số người bệnh trở thành người khỏi mang vi khuẩn. Tinh hồng nhiệt chỉ là một biểu hiện lâm sàng của tình trạng nhiễm liên cầu khuẩn. Các biểu hiện lâm sàng khác là viêm da có mủ, viêm quầng, viêm tim, khớp. Nguyên nhân của những hình thái này của nhiễm liên cầu khuẩn là lối vào của vi khuẩn, cấu trúc kháng nguyên, và độc tố của chúng. Có thể nói tinh hồng nhiệt là biểu hiện của sự nhiễm khuẩn ban đầu, còn viêm tim khớp xảy ra ở cơ thể đã có miễn dịch kháng dộc tố và nhạy cảm dối với nhiễm khuẩn. Chẩn đoán bằng xét nghiệm Chẩn đoán bằng xét nghiệm có thể tiến hành bằng cách tách liên cầu khuẩn từ thanh quản hoặc tìm độc tố của vi khuẩn và kháng thể ở trong máu. Nhưng phương pháp chẩn đoán bằng xét nghiệm không được thông dụng, vì liên cầu khuẩn rất phổ biến, thường thấy ở thanh quản những người lành mạnh, và vì không thể nào phân biệt được liên cầu khuẩn gây bệnh scarlatine với những liên cầu khuẩn khác cũng ở người lành mạnh. QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM Nguồn truyền nhiễm Nguồn truyền nhiễm là người bệnh, người khỏi mang vi khuẩn và người lành mang vi khuẩn. Cơ chế truyền nhiễm Bệnh được lây chủ yếu qua không khí bằng giọt nhỏ. Người ta còn thực nhận khả năng truyền nhiễm qua thức ăn như sữa qua các đồ dùng và đồ chơi của người bệnh. Bệnh còn có thể lây qua tay bẩn và qua các dụng cụ y học tinh hồng nhiệt do vết thương, do bỏng, sau khi sinh đẻ. Tính cảm thụ và miễn dịch Mỗi người đều tiếp thụ được bệnh, cho nên tinh hồng nhiệt là bệnh chủ yếu của trẻ em dưới 14 tuổi. Miễn dịch sau khi bị bệnh rất bền lâu. Gần đây, do dùng nhiều kháng sinh, nên thấy có hiện tượng bị mắc bệnh lại. Miễn dịch có tính chất kháng độc tố và kháng vi khuẩn. Theo các quan sán dịch tễ học, miễn dịch trong một số trường hợp, được hình thành chậm, trong vòng nhiều tuần lễ. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ Tinh hồng nhiệt thấy chủ yếu ở trẻ em dưới 12-14 tuổi, tuy cũng có thể xảy ra ở người lớn. Trong tổng số người mắc bệnh tinh hồng nhiệt, trẻ em dưới 7 tuổi chiếm 72,7% trẻ em dưới 14 tuổi chiếm 97%. Tinh hồng nhiệt có tính theo mùa. Mức độ mắc bệnh tăng ở đầu mùa thu khi bắt đầu đi học và giảm trong mùa nghỉ học. Mức dộ mắc bệnh tuỳ thuộc vào mật độ dân chúng, cho nên mức độ mắc bệnh ở nông thôn thấp hơn so vứi ở thành phố. Kết quả là đa số thanh niên ở nông thôn không có miễn dịch, trong khi đó hầu hết trẻ em ở thành phố dưới 12 tuổi đã bị tinh hồng nhiệt và có miễn dịch. Tinh hồng nhiệt có tính chu kỳ. Cứ 3-5 năm lại xảy ra dịch lớn. Tính chu kỳ được điều chỉnh do tác động qua lại giữa miễn dịch của dân chúng và cơ chế truyền nhiễm bằng giọt nhỏ. Thời gian giữa các vụ dịch rất khác nhau tuỳ theo điều kiện sống cụ thể của dân chúng như cường độ của quá trình di cư trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ hai, số trường hợp mắc bệnh trong năm 1943 ở nhiều nước Tây Âu gấp 2-3 lần tổng số các trường hợp mắc bệnh trong suốt 11 năm trước chiến tranh 1928-1938. Trước đây 20-30 năm, tinh hồng nhiệt là một bệnh nặng ở trẻ em, thường kèm theo biến chứng như viêm tai có mủ dẫn tới điếc, viêm thận, suy tim với tỷ lệ tử vong cao 8-12%. Ngày nay, tinh hồng nhiệt trở thành một bệnh nhẹ ở trẻ em tỷ lệ tử vong ở khắp nơi đều ở mức thấp, dưới 0,1%. Việc sử dụng penix- illin chỉ giải thích một phần sự diến biến này, bởi vì tinh hồng nhiệt cũng diễn biến nhẹ ở những người bệnh không điều trị bằng kháng sinh. Rất có thể là do tính sinh độc tố của tác nhân gây bệnh bị giảm, hoặc do từ thế hệ này qua thế hệ khác, sức đề kháng của dân chúng đối với tinh hồng nhiệt đã tăng lên. BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG DỊCH Biện pháp chống dịch Chống bệnh tinh hồng nhiệt là một việc rất phức tạp. Vì tác nhân gây bệnh đến nay vẫn chưa được xác định. Các thể bệnh nhẹ làm cho việc chẩn đoán bệnh và việc phòng chống dịch càng thêm khó khăn. Các biện pháp chông dịch chỉ nhằm mục đích giảm tỷ lệ tử vung và ngăn ngừa các biến chứng. Tinh hồng nhiệt là một bệnh bắt buộc phải khai báo. Người bệnh có thể cách ly ở nhà hoặc ở bệnh viện tuỳ theo các chỉ định lâm sàng và chỉ định dịch tễ học, như trong bệnh sởi. cần phải đưa vào bệnh viện, các trẻ em nhỏ dưới 2 tuổi vì ở lứa tuổi này, tỷ lệ tử vong cao nhất và những người bệnh sống trong điều kiện vệ sinh thấp kém. Phải đưa người bệnh vào bệnh viện để đề phòng tái nhiễm và biến chứng bởi liên cầu khuẩn. Người bệnh có thể ra viện từ ngày thứ bảy đến ngày thứ mười hai nếu khỏi về lâm sàng; thậm chí có thể sớm hơn từ ngày thứ năm nếu điều trị bằng penix- illin. Tuy nhiên, những trẻ em dưới 12 tuổi và những người lớn làm việc ở các nhà trẻ, mẫu giáo, lớp 1 và lớp 2, chỉ được phép đi làm việc hoặc đến trường sau thời gian cách ly 12 ngày ở nhà, vì không thể xác định được là họ còn mang vi khuẩn hay không. Ở ổ bệnh không phải tẩy uế cuối cùng, chỉ cần lau rửa sàn nhà, các đồ dùng và làm thoáng khí buồng bệnh. Trong khi người bệnh còn nằm điều trị cũng làm thoáng khí buồng bệnh bằng cách chiếu tia cực tím. Nên tiến hành tẩy uế thường xuyên các đồ dùng hàng ngày và đồ đạc trong phòng bằng dung dịch cloramin 1%. Những người chăm sóc người bệnh phải đeo khẩu trang bằng gạc Trong ổ dịch, những trẻ em tiếp xúc với người bệnh phải cách ly trong 7 ngày, kể từ ngày cách ly người bệnh và tiến hành tẩy uế cuối cùng. Nên tiêm gamma-globulin cho những trẻ em đó. Phòng bệnh đặc hiệu Người ta chưa chế dược vacxin đặc hiệu. Những vacxin chế bằng liên cầu khuẩn chết hoặc bằng độc tố của chúng, hoặc bằng cả vi khuẩn và độc tố đều chỉ cho kết quả hạn chế và cần phải tiêm 3-5 lần. Việc sử dụng liều lượng kháng nguyên cao đã gây ra phản ứng mạnh, không khác nhiễm khuẩn liên cầu khuẩn mấy. Nhưng cố gắng chế một giải độc tố ít dộc hơn cũng thất bại. Như vậy việc tạo miễn dịch chủ động trong tinh hồng nhiệt còn là một vấn đề phải giải quyết. Việc dùng gamma-globulin để tạo miễn dịch thụ động cũng cho kết quả hạn chế.

bệnh tinh hồng nhiệt